ナナの毎日

自由に書きます。

うちの猫様

アジサイ

代々木八幡駅の近くの神社で撮ったアジサイです。

日本では梅雨が始まったんですよね。

コロナ拡大を防ぐためベトナムで隔離されています。

Tôi vừa trở về Việt Nam vào thứ 6 tuần trước.

先週日本からベトナムに戻ってきた。


Vì corona mà các chuyến bay quốc tế bị hạn chế, tôi phải chờ ở Nhật hơn hai tháng, hầu như không ra

ngoài và cũng không làm thêm.

コロナウイルスが拡大ため国際便が制限されてずっと日本で2カ月待っていた。外をあまり出かけなかったし、バイトなどもできなかったです。


Nhưng may mắn là tôi vẫn có chỗ ở và chi phí sinh

hoạt.

だが住む場所や生活費があったのでまだ大丈夫だった


Cuối cùng tôi cũng lên được chuyến bay ngày 5/6.

Vừa đến VN ngay lập tức di chuyển đến khi cách li.

6月5日にやっと飛行機に乗れた。ベトナムに着いたらすぐ隔離の場所に向かった。


Lần này tôi cách li ở Quang Nam, miền trung Việt Nam.

隔離するため政府は軍事施設を使用にした。場所はベトナムの真ん中だ。


Thời tiết rất nóng, khoảng 38-40 độ và không có điều hoà. Nhưng cũng may là có quạt máy.

天気はすごく暑くて温度はだいたい38ー40度だ。暑いのにエアコンがなくて困っているが、扇風機があったのでよかった。


Thật ra bạn của tôi đã về nước từ 3 tuần trước. Cô ấy bị cách li ở một tỉnh miền Bắc. Ở đó có máy lạnh, muốn ăn gì sẽ được mua giúp. Tôi đã nghe từ bạn tôi như vậy.

実は私の友人は三週間前、先に帰国ができた。彼女はベトナムの北にある県で隔離されていた。そちらはエアコンがあるし、食べたいものを買ってくれるし、彼女からそう聞いたけど。


Buổi sáng tôi thường dậy khoảng 5h30, vì trơi nông nên tôi không ngủ trọn giấc . Nhưng dù sao, được trở về việt nam la tốt rồi.

ここで朝の5時半ぐらい目覚めてしまい、暑くて眠れないわけだ。でも、帰国できて何より幸せだ。後ちょっとだけ我慢する。


Sau khi biết tôi về nước, bạn bè đã liên lạc rất nhiều. “Không sao, tôi đã khỏe mạnh trở về” tôi đã trả lời như vậy

私は帰国できたと知られて友達からたくさんの連絡が来た。「大丈夫 大丈夫 無事に帰れたよ」と返事した。


Một tuần đã trôi qua, ngoài cái nóng ghê gớm thì những cái khác tôi hoàn toàn không có vấn đề gì.Cơm cũng được, những người quản lí cũng rất vui vẻ và thường bắt chuyện với chúng tôi.

一週間が経って天気のひどい暑さ以外、他のは私にとって全然大丈夫だ。ご飯はまあまあ美味しい。管理者が面白くて優しい軍人だ。よく私たちに話をかけてくれて寂しくない。


Thời gian đầu, vì không chịu nổi cái nóng và thức ăn mà mà một phụ nữ đã viết những lời than phiền trên một diễn đàn. Cô ấy cũng đang có em bé.

最初の時、ある女性は天気の暑さや食事などに我慢出来なくてあるフォーラムに文句を載せてしまった。彼女は妊婦さんだ。


Vì cô ấy viết lên mạng xã hội nên chẳng mấy chốc nó đã làm đi rất nhanh. Cô ấy đã bị tấn công bằng những lời lẽ rất tệ từ những người không quen biết trên Internet.

ソーシャルネットにに書いたのであっという間に広がってしまった。インターネットで知らない人からひどい言葉でどんどん攻撃された。


Cùng ngày, cô ấy đã xoá bài viết và xin lỗi nhưng mà, những lời bắt nạt thì không dừng lại. Thật ra, tôi đã đọc bài viết đó, tôi không tán thành nhưng mà, tôi nghĩ lời cô ấy viết không quá sự thật.

当日文句を消して謝ったが、いじめる言葉が止まってない。実は私もちょっと読んだ。賛成ではないが、彼女が書いたやつは嘘じゃないです。


Hiện nay ở Việt Nam, chính phủ và những người có trách nhiệm đang nỗ lực thực hiện những chính sách chống dịch nên lời nói của cô ấy, tôi nghĩ là, nó không đúng thời điểm. Đây là một vấn đề nhạy cảm nên lỡ miệng nói ra điều gì cũng sẽ gây tranh cãi.

現在ベトナムで政府や責任者は努力してコロナウイルスを防ぐため対策を練っているので彼女の発言はタイミングはちょっと。。。と思う。

敏感な問題なので何でも言っちゃうと話題になるだろう。


Mạng xã hội giống như là một xã hội thu nhỏ của chúng ta. Bề ngoài thì đẹp đẽ nhưng cũng có những vùng nguy hiểm bị che đậy.

Tôi cầu mong cho em bé của cô ấy không bị ảnh hưởng từ những lời bắt nạt tệ hại đó. Mong là em sẽ được bình an sinh ra đời.

ソーシャルネットは私たちの社会と同じだ。表面が美しいが、危険な部分が隠されているはずだ。

虐められてひどい言葉で言われた彼女の赤ちゃんは影響を受けないないように祈ってる。無事に生まれてくださいね。


Thời gian gần đây, tôi cũng nhớ ra câu chuyện của Kimura Hana san. Cô ấy đã bị bắt nạt và tự sát. Nó là một câu chuyện buồn.

この件で木村花さんの事件も思い出された。木村花さんにもインターネットで虐められて自殺してしまった。


人が生まれたのは愛されるため生まれたんじゃないかと思う。


(この文章を書いたきっかけは日本語の練習するためです。日本語が間違ったら教えてください。お願いします。)

ここにある花です。綺麗ですね。